Giá trị thực tiễn của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” trong thời đại ngày nay

0
355

Đề cương về văn hóa Việt Nam là một văn kiện lịch sử vô giá, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cách mạng, kháng chiến, chỉ ra con đường vận động, phát triển của nền văn hóa mới Việt Nam. Sau 80 năm, những tư tưởng của Đề cương về văn hóa Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị, góp phần định hướng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế.

Bối cảnh ra đời

Đề cương văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta khởi thảo và được công bố năm 1943 trong bối cảnh chiến tranh thế giới thứ hai đang lan rộng và ngày càng ác liệt. Ở Việt Nam, tình hình kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa – xã hội rất phức tạp, mâu thuẫn giai cấp và dân tộc ngày càng sâu sắc thêm. Nhân dân ta không những chịu cảnh “một cổ hai tròng” do quân xâm lược Nhật, Pháp gây nên mà còn lâm vào tình cảnh lầm than, cơ cực do bè lũ tay sai “bóp nặn” một cách dã man, tàn ác. Đã thế, Phát xít Nhật và thực dân Pháp lại thi nhau vơ vét, bóc lột và đàn áp nhân dân, khủng bố phong trào cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Căm phẫn quân xâm lược sâu hơn vực thẳm, ý chí quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược cao ngút trời Nam. Trước cảnh nước mất, nhà tan, nghe theo tiếng gọi của Đảng, nhân dân ta đã đứng lên đánh giặc cứu nước; các tổ chức vũ trang cách mạng lần lượt ra đời; phong trào quyên góp lương thực, vũ khí, thuốc men, đưa con em tham gia các đội quân cách mạng diễn ra khắp buôn làng, ngõ xóm. Trí thức, văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên yêu nước chịu ảnh hưởng của cách mạng đã đứng lên đấu tranh chống lại phát xít Nhật và thực dân Pháp, đòi lại quyền tự do, độc lập cho dân tộc. Thế nhưng, quân phát xít và thực dân đã cấu kết với bè lũ tay sai, dùng các thủ đoạn dã man, tàn ác, kể cả thủ đoạn “trói buộc vǎn hoá và giết chết vǎn hoá Việt Nam” để thực hiện mưu đồ xâm lược của chúng.

          Trong bối cảnh ấy, Đảng ta và Bác Hồ kính yêu đã quyết định triệu tập Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng từ ngày 25 đến 28-2-1943 để bàn biện pháp đối phó với tình hình, quyết tâm đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng trong cả nước, tiến tới chặn đứng và đập tan âm mưu, thủ đoạn xâm lược của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Từ thực tiễn hơn chục năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lại đứng trước những việc cần kíp phải làm ngay để kịp thời ngăn chặn bàn tay nhuốm máu đầy tội ác của phát xít và thực dân; Đảng ta nhận định rằng, trong lúc này, Đảng cần phải có các tổ chức và đội ngũ cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hoá, văn nghệ để gây dựng và thúc đẩy phong trào văn hoá tiến bộ, văn hoá cứu quốc nhằm chống lại văn hoá phát xít thụt lùi, văn hóa phong kiến bảo thủ, lạc hậu… Vì vậy, tại Hội nghị Thường vụ Trung ương lần này, Đảng ta khẳng định rõ thái độ của mình đối với vấn đề vǎn hoá và nó được ghi rõ trong Đề cương về văn hóa Việt Nam công bố năm 1943.

Kết cấu của Đề cương

Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 gồm 05 phần:

Phần (I): “Cách đặt vấn đề”;

Phần (II): “Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam”;

Phần (III): “Nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật, Pháp”;

Phần (IV): “Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam”;

Phần (V): “Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa Mácxít Đông Dương và nhất là của những nhà văn hóa Mácxít Việt Nam”(1).

Nội dung cơ bản của Đề cương

Đề cương thể hiện các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, phương châm, nguyên tắc của nền văn hóa dân tộc, như sau:

Thứ nhất,  xác định rõ nội dung, phạm vi, vị trí, vai trò của văn hóa trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đề cương nêu rõ: văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật; quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị; mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động, không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. Đồng thời, có lãnh đạo được phong trào văn hóa Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả.

Thứ hai, cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng lãnh đạo. Trên cơ sở chỉ rõ tính chất văn hóa Việt Nam trong quá khứ và hiện tại (1943), chỉ rõ những nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách thống trị của Nhật – Pháp; những thủ đoạn của Nhật – Pháp trói buộc và giết chết văn hóa Việt Nam; dự kiến về tiền đồ văn hóa Việt Nam. Đề cương khẳng định cách mạng nhất định thắng lợi, văn hóa Việt Nam sẽ cởi được xiềng xích, đuổi kịp văn hóa mới, tiến bộ trên thế giới. Muốn vậy, phải làm cách mạng về văn hóa, “cách mạng vǎn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo”.

Thứ ba, để thực hiện cuộc cách mạng văn hóa ở nước ta phải nắm vững “ba nguyên tắc vận động”, đó là: Dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa. Ba nguyên tắc đã trở thành phương châm, mục tiêu hành động, là quan điểm xuyên suốt trong quá trình cách mạng và xây dựng nền văn hóa mới.

Dân tộc hoá (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho vǎn hoá Việt Nam phát triển độc lập).

           Đại chúng hoá (chống mọi chủ trương hành động làm cho vǎn hoá phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng).

          Khoa học hoá (chống lại tất cả những cái gì làm cho vǎn hoá trái khoa học, phản tiến bộ)(2)..

Đảng ta cũng khẳng định: Muốn cho ba nguyên tắc trên đây thắng, phải kịch liệt chống những xu hướng vǎn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm…. Có thể thấy, ba nguyên tắc trên là sự trả lời đúng đắn và kịp thời cho các nhu cầu cấp thiết nổi lên trong một thời điểm trọng đại của lịch sử. Dân tộc, khoa học, đại chúng đã khẩu hiệu, trở thành tính chất, đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam – một nền văn hóa thấm đẫm tinh thần dân tộc, giàu bản sắc do Nhân dân sáng tạo với khát vọng không ngừng vươn đến Chân – Thiện – Mỹ, hướng đến tiến bộ, văn minh.

Thứ tư, để đặt nền móng và định hướng xây dựng một nền văn hóa cách mạng mới, cần kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn hai nhiệm vụ “xây” và “chống”. Đề cương nhấn mạnh nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa Mácxít là phải chống lại văn hóa phátxít, phong kiến, thoái bộ, nô dịch, ngu dân, phỉnh dân; phát huy văn hóa dân chủ, cải cách chữ quốc ngữ…

Giá trị thực tiễn của Đề cương

Với sự ra đời của Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943, hoạt động của các tổ chức văn hóa, văn nghệ của Đảng, nhất là hoạt động sáng tạo của các nhà báo, nhà văn, nghệ sĩ ngày càng phong phú và sắc bén; họ luôn bám sát nhiệm vụ Đảng giao, phản ánh sắc sảo, sinh động đời sống thực tiễn đấu tranh cách mạng, kịp thời động viên, cổ vũ phong trào toàn dân thi đua tăng gia sản xuất, giết giặc lập công, xây dựng đời sống văn hóa mới. Sự “lột xác” của không ít văn nghệ sĩ thể hiện ở chỗ dám trút bỏ “bộ cánh ủy mị, thướt tha”, tâm hồn mộng mơ, suốt ngày “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”, thậm chí “để tâm hồn treo ngược ở cành cây, hay lả lướt đìu hiu cùng ngọn gió” để quay về với đời sống hiện thực, hòa mình vào cuộc sống chiến đấu, lao động, học tập của đồng bào, biết “dùng ngòi bút làm đòn xoay chế độ, mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền” (Sóng Hồng). Vì vậy, trong sáng tác và tác phẩm của họ đã sáng ngời “ánh thép” và các văn nghệ sĩ đã biết “xung phong”. Khẳng định điều này, nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: “Người đã thay đổi đời tôi, thay đổi thơ tôi”.

          Đi theo cách mạng, tắm mình trong thực tiễn, trực tiếp cầm bút và cầm súng chiến đấu; sử dụng sáng tạo phương pháp sáng tác xã hội chủ nghĩa, các văn nghệ sĩ nước ta thật sự đã trở thành những dũng sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, lý luận của Đảng; đã góp phần to lớn vào việc đưa ánh sáng của Đảng đến với đồng bào, chiến sĩ, củng cố niềm tin chiến thắng cho họ; qua đó, thổi luồng không khí cách mạng vào đời sống xã hội Việt Nam; làm cho kẻ thù lo sợ. Nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị ra đời, khắc họa sinh động hình tượng “Bộ đội Cụ Hồ”, phản ánh sát thực chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh; có tác dụng tuyên truyền, giáo dục to lớn…

          Đáng kể trong kho tàng văn hóa, văn nghệ cách mạng là những bức thư, bài nói, viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và của các văn nghệ sĩ về văn hoá, văn nghệ; là các văn kiện, tài liệu và nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng; đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5, khoá VIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhờ đó, đường lối văn hoá, văn nghệ của Đảng ngày càng sáng rõ, tỏa sáng; các tổ chức văn hóa, văn nghệ ở nước ta ngày càng được củng cố, phát huy tốt hơn vai trò, tác dụng. Lý luận văn hoá, văn nghệ Việt Nam ngày càng phong phú và sắc nét. Văn hóa, văn nghệ đã và đang có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

          Với đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang ra sức xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; làm cho văn hoá thật sự là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân. Ở nước ta, văn hóa luôn luôn là một mặt trận; chăm lo xây dựng, phát triển văn hoá là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội và nó là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức, các văn nghệ sĩ giữ vai trò quan trọng. Trong những năm đổi mới toàn diện đất nước, Đảng, Nhà nước, các bộ ngành, địa phương, các tổ chức chính trị, văn hóa, xã hội đã và đang quan tâm xây dựng mới, bổ sung, hoàn thiện nhiều văn bản pháp luật, các nghị định, thông tư nhằm điều chỉnh và tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ phát triển, phù hợp với tình hình mới. Theo đó, các thiết chế văn hóa từ trung ương đến địa phương cũng được kiện toàn, củng cố và ngày càng được tăng cường. Nhiều công trình văn hóa mới được xây dựng và đang hoạt động có hiệu quả như thư viện, bảo tàng, tượng đài các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa. Đời sống văn hoá, văn nghệ ở cơ sở có bước phát triển, thu hút đông đảo cán bộ, chiến sĩ và quần chúng nhân dân tham gia sáng tạo, hưởng thụ và bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống và cách mạng. Việc chấn hưng nền văn hóa dân tộc trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là những minh chứng hùng hồn khẳng định sự nhất quán, sức sống bền vững của đường lối văn hóa, văn nghệ đúng đắn đã được Đảng ta vạch ra từ Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943.

          Kỷ niệm 80 năm ngày ra đời Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là dịp tốt để chúng ta ôn lại và nhìn thấy rõ hơn những giá trị soi đường, tác dụng định hướng của Đề cương; qua đó nhận thức đúng hơn nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn mới. Để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam chúng ta cần phải thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về văn hóa, đặc biệt là quan điểm Đại hội lần thứ XIII của Đảng về xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam nhằm góp phần vun đắp nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, giàu bản sắc, tạo sức mạnh, nguồn lực nội sinh để xây dựng nước Việt Nam phồn vinh và hạnh phúc.

—————

(1), (2). Văn kiện Đảng toàn tập (1940- 1945), (2000),  Đề cương về văn hóa Việt Nam, NXB chính trị Quốc gia Hà Nội, tập 7, tr 316-321.

Người viết bài: Hà Thị Kim Tuyến

BÌNH LUẬN